Từ Mỹ trở về Việt Nam, ông N.V.T (SN 1969, quốc tịch Việt Nam và Mỹ) xây dựng gia đình với bà V.T.G (SN 1987). Sau nhiều năm chung sống, ông T. gửi đơn yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Lấy hai vợ
Năm 1990, ông N.V.T sang Mỹ định cư. Thời điểm đó, pháp luật chưa thông qua quy định một công dân có thể có hai quốc tịch nên ông N.V.T thôi quốc tịch Việt Nam. Sống ở Mỹ, ông T. lập gia đình và từ đó đến nay, quan hệ hôn nhân giữa ông và người vợ bên Mỹ vẫn tồn tại, chưa từng ly hôn.
Nhiều năm sau, ông T. nhập lại quốc tịch Việt Nam và trở thành công dân có hai quốc tịch. Trở về cố hương năm 2013, ông T. tình cờ gặp bà V.T.G, 26 tuổi, độc thân. Chỉ một lần trò chuyện, hai người nảy sinh tình cảm. Hẹn hò thêm vài lần, ông T. ngỏ lời cầu hôn, cả hai dọn về sống chung nhưng không tổ chức đám cưới. Sau đó, bà G. lần lượt hạ sinh hai con gái.
Bất ngờ, cả hai muốn chia tay. Ông T. thuê luật sư tiến hành thủ tục hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Minh họa: KHỀU
Theo ông T., sau khi sinh con, bà G. nói muốn hai con có giấy khai sinh và hưởng mọi quyền lợi như những đứa trẻ khác thì cha mẹ phải đăng ký kết hôn nên ông chấp nhận cùng bà G. đến UBND phường (nơi gia đình cư ngụ) làm thủ tục. Gần đây, vợ chồng mâu thuẫn, ông tìm hiểu thì biết rằng pháp luật Việt Nam có bảo vệ những đứa trẻ ngoài giá thú. Mặt khác, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận chế độ hôn nhân một vợ - một chồng. Vì vậy, ông T. gửi đơn đề nghị tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa ông với người vợ ở Việt Nam.
Thời điểm tòa án chính thức giải quyết, ông T. không ở Việt Nam mà ủy quyền luật sư đến làm việc. Thông qua người đại diện, ông T. bày tỏ nguyện vọng tôn trọng mong muốn của vợ về quyền nuôi con; cam kết cấp dưỡng theo luật pháp sau khi tòa án hủy kết hôn trái pháp luật.
Ai có lỗi?
Làm việc với tòa án, bà G. nói rằng bà biết chuyện chồng từng lấy vợ nhưng ông cho biết đã ly hôn ở nước ngoài. Khi làm thủ tục đăng ký kết hôn, ông T. có về nơi thường trú xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Sau đó, gia đình bà G. chuyển đến TP HCM sinh sống, kinh doanh ẩm thực.
Hồi tưởng quãng thời gian hạnh phúc, bà G. kể thời gian đầu, vợ chồng bà chung sống thuận hòa, công việc làm ăn vì vậy mà thuận buồm xuôi gió. Nguyên nhân dẫn đến cớ sự hôm nay là do ông T. có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác.
"Lúc việc này bại lộ, ông ấy có viết "giấy cam kết niềm tin" nhưng đó chỉ là kế hoãn binh. Lợi dụng lúc tôi với hai con về quê ngoại, ông T. dọn qua sống chung với nhân tình. Tôi tìm đến tận nơi rồi xô xát với họ" - người vợ sụt sùi.
Sau lần đụng độ ấy, ông T. viết thêm "giấy cam đoan" có nội dung sẽ cho bà G. hết cơ sở kinh doanh ở Việt Nam cùng một khoản tiền mặt; gửi tiền nuôi con đầy đủ. Bà G. đồng ý nhưng muốn ông T. cấp dưỡng tiền nuôi hai con 6 triệu đồng/tháng và phải đưa đủ một lần. Bà G. cũng cho biết toàn bộ tài sản đều do chồng đứng tên.
Cán bộ trực tiếp làm thủ tục đăng ký kết hôn trình bày hồ sơ đầy đủ giấy tờ (trong đó có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của hai người do cơ quan có thẩm quyền xác nhận) nên cán bộ thông qua thủ tục đăng ký kết hôn. Nay đề nghị tòa án xác minh lại giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của ông T. nhằm làm rõ mọi khúc mắc.
Nơi cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của ông T. thì lý giải ông T. đang làm việc tại Mỹ, thỉnh thoảng có về quê thăm gia đình. Tài liệu lưu trữ tại địa phương không thể hiện ông T. từng đăng ký kết hôn trước đó.
Chấp nhận yêu cầu hủy kết hôn, cơ quan chức năng giao bà G. chăm sóc hai con gái, ông T. có trách nhiệm cấp dưỡng hằng năm, tới khi con trưởng thành. Tòa án không phân xử vấn đề tài sản vì đôi bên không yêu cầu.
"Tôi nghĩ đến các con nên mới muốn đăng ký kết hôn. Nếu không, tôi cần gì làm thế!" - bà G. chua chát nói.
Xác nhận trái quy định
Quyết định sơ thẩm giải quyết về việc yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật nêu theo điều 9, Luật Hôn nhân và Gia đình, hôn nhân giữa ông N.V.T với người vợ ở nước ngoài là hôn nhân hợp pháp và đang tồn tại.
Cơ quan chức năng nơi ông T. thường trú xác nhận trước thời điểm làm thủ tục đăng ký kết hôn với bà V.T.G, ông này chưa kết hôn lần nào, từ đó, ông T. sử dụng giấy tờ trên làm căn cứ đăng ký kết hôn với bà G. Việc xác nhận tình trạng hôn nhân như vậy là trái quy định về thẩm quyền, thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Đó là nguyên nhân dẫn đến hệ quả vợ chồng ông T. đăng ký kết hôn vi phạm luật định.