Tòa án Nhân dân TPHCM vừa đưa vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất tại quận Gò Vấp ra xét xử. Theo hồ sơ vụ án, ngày 4/4/2018, bà Lê Thanh Nguyệt chuyển nhượng cho các cá nhân gồm: bà Đào Thị Sen, bà Nguyễn Thị Hương, ông Vũ Văn Chương và bà Nguyễn Thị Chăm thửa đất số 571, tờ bản đồ số 26, địa chỉ thửa đất tại phường 13, quận Gò Vấp; Thửa đất này được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) số CH01826 ngày 24/6/2014.
Bà Nguyệt bán đất cho các cá nhân trên theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng số 1486, quyển số 04 ngày 4/4/2018 tại phòng công chứng Số 05, địa chỉ 278 Nguyễn Văn Nghi, phường 7 (quận Gò Vấp, TPHCM). Sau đó, bà Nguyệt đã bàn giao đất cho bên mua.
Đến ngày 5/5/2018, chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận Gò Vấp đã tiếp hành làm các thủ tục sang tên cho bên mua. Tiếp đến, các cá nhân bên mua đã làm các thủ tục chuyển nhượng phần quyền sử dụng đất của mình trong thửa đất trên theo quy định của pháp luật tại văn phòng công chứng và văn phòng Đăng ký đất đai quận Gò Vấp.
Bất ngờ, đến ngày 5/6/2018 bà Trần Thị Hằng (trú tại phường 13, quận Gò Vấp) làm đơn khởi kiện để đòi lại thửa đất trên. Lý do, bà Hằng cho rằng, vào tháng 1/2015 và tháng 8/2016 bà có ký hợp đồng (có công chứng) chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất này với bà Lê Thanh Nguyệt. Tuy nhiên hợp đồng này chỉ là "để che đậy cho hành vi vay mượn tiền giữa bà này với bà Nguyệt".
Do đó, bà Hằng yêu cầu phía toà án tuyên huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với bà Nguyệt....; Huỷ phần cập nhật chủ sở hữu đối với các cá nhân đã mua bán thửa đất trên với bà Nguyệt.
Luật sư Vũ Ngọc Tường, Đoàn Luật sư TPHCM phân tích, việc các cá nhân mua bán thửa đất trên của bà Nguyệt theo đúng các trình tự, thủ tục pháp của pháp luật. "Ở đây họ bỏ tiền ra mua thửa đất của bà Nguyệt là chính chủ và được các cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai đã đăng bộ chuyển nhượng đúng pháp luật. Hơn nữa các điều khoản của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định, Nhà nước không thu hồi sổ đỏ đã cấp trong các trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai nếu người được cấp đã thực hiện thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất và đã được giải quyết theo quy định của pháp luật", Luật sư Tường lý giải. |
Duy Quang/ TPO